Hội hoạ của Ai Cập cổ được biết đến ít hơn điêu khắc. Đáng lẽ
nó phải giữ vị trí quan trọng trong việc trang trí các cung điện, các khu mộ,
nhưng những di tích về hội hoạ Ai Cập cổ gần như không còn giữ lại được gì.
Tuy
nhiên từ các mẩu và các đoạn tranh hiếm hoi còn lưu giữ, chúng ta cũng có thể
tưởng tượng được các đặc tính của hội hoạ Ai Cập cổ. Phong cách chính trong nền
hội họa này được đơn giản, cách điệu và dập khuôn theo những quy ước khá nghèo
nàn, phần lớn mang tính trang trí hoặc điểm xuyết linh hoạt cho các bức chạm nổi.
Người ta tìm thấy các bằng chứng về hội hoạ Ai Cập cổ qua
các hình ảnh trang trí còn lưu lại trong các khu mộ. Những bức tranh này được
tô vẽ bằng nhiều chất liệu, chủ yếu trang trí cho các tác phẩm chạm nổi. Rất
nhiều hình ảnh mang vẻ huyền bí của thế giới bên kia, tuy nhiên không phải tác
phẩm nào cũng mang tính thẩm mỹ cao. Họa sĩ Ai Cập cổ dường như bị cuốn hút nhiều
hơn về những đề tài được đúc kết từ thực tế. Ví dụ hình vẽ “Người đàn bà khóc
mướn” diễn tả trên chất liệu giả đá hoa cương trong ngôi mộ của Nébamon và
Ipouky (khoảng 1370 TCN, tại Khokha). Bộ tóc đen của người phụ nữ trong tranh nổi
bật trên nền đỏ, có những hình vuông lớn tạo thành bởi các dải trắng, vàng xen
kẽ. Sự hoà hợp màu sắc đỏ, đen, vàng, trắng vừa phong phú, vừa tinh tế. Nét lượn
của thân thể người phụ nữ cùng các nếp xếp của chiếc váy đối lập khéo léo với
những đường thẳng và đường ngang của vách đá làm cho bức tranh thêm sinh động.
Chúng ta có thể so sánh bức tranh này với cảnh vẽ “Những người đàn bà khóc mướn”
được phát hiện tại Thèbes, trong khu mộ của Ramosé, ra đời năm 1360 trước Công
nguyên. Trong bức tranh thứ 2, màu những chiếc váy và nền tranh được dùng màu
vàng trắng tô chồng lên nền tạo thành lớp trên, chừa lại những khuôn mặt và da
thịt mầu vàng ốc; mầu đen của các bộ tóc giả có nhiều lọn quăn thả dài xuống
vai làm bức tranh chắc chắn. Những người đàn bà trong tranh dường như có cùng
dáng vẻ, khác nhau nhiều nhất là góc độ giơ lên của các cánh tay và độ ngước
lên của các gương mặt. Sự tĩnh lặng của những chiếc váy được phá vỡ bằng cách
điểm xuyết một cô gái nhỏ khoả thân đứng ở lớp đầu tiên của tranh. Điều này
cũng phá vỡ sự tĩnh lặng và cách đều của các mảng tóc đen. Hình dáng các nhân vật
tạo ra những điệu bộ cứng đờ tượng trưng cho việc than khóc, đối lập mạnh mẽ với
sự run rẩy của những lọn tóc đen và đường thẳng chạy dọc của các bộ váy áo - Quả
là sự khám phá tài tình.
Người ta tìm thấy nhiều di vật chứng tỏ các hoạ sĩ Ai Cập có
mặt nhiều trong lĩnh vực trang trí. Và đảm bảo rằng sự khéo léo tài tình của họ
sánh được với các nhà điêu khắc. Chúng ta chỉ cần chiêm ngưỡng một “ostracon” đặc
biệt mà bảo tàng Louvre có được. Đây là bản phác thảo gương mặt một vị vua. Có
lẽ bức chân dung này được một họa sĩ thời Nouvel Ampire thể hiện. Bức tranh chỉ
sử dụng một nét vẽ mầu đỏ và một nét mầu đen. Khi thì họa sĩ để cho xuất hiện
nét đỏ, lúc lại nhấn mạnh nét đỏ với nét đen mà không làm hỏng những nét đệm ở
dưới, cũng không làm rườm rà bức vẽ. Sau này người ta cũng tìm thấy sự nhạy cảm
tương tự trong các nét vẽ của hội hoạ Trung Quốc.
Nhìn chung các họa sĩ Ai Cập cổ vẽ trang trí nhiều trong các
cung điện vua chúa, người ta có thể tìm thấy một kiệt tác thực sự trên tráp gỗ
phủ chất giả đá hoa (ra đời khoảng năm 1325 TCN) trong ngôi mộ của
Toutânkhamon. Trên hai mặt tráp là hình ảnh thắng trận của vua xứ Nubien và vua
xứ Syrien. Màu sắc thể hiện trên tráp cô đọng là nâu đỏ, vàng, đen. Các khuôn mặt
miêu tả theo hướng nhìn nghiêng. Kết cấu bố cục cầu kỳ nhưng sáng sủa. Khuôn mặt
của hai vị vua và sự vươn lên lấy đà của hai chú ngựa mắc vào xe được vẽ theo
kiểu cách vô cùng khéo léo. Chúng ta đã bắt gặp nhiều bức chạm nổi thấp có cùng
phong cách trên và cách xử lý khá tương tự, đặc biệt những tác phẩm thể hiện cuộc
chiến của Séthi đệ I trên các phù điêu ở đền Amon -Rê thuộc Karnak, hay những bức
tranh mô tả cuộc săn bắt của Ramsè III trên cổng đền. Có thể đây là một trong
những đề tài chính của các hoạ sĩ cung đình thời bấy giờ, được các nghệ sĩ tái
tạo lại nhiều lần, tất nhiên phải cộng với những thay đổi và sáng tạo riêng của
từng tác giả.
Người dân Ai Cập khẳng định rằng “hội hoạ xuất hiện ở nước họ
cách đây 6000 năm, trước cả khi họ du nhập vào Hy Lạp”. Theo các tác giả người
La Tinh thì đó đơn thuần chỉ là những lời khoe khoang. Tuy nhiên, nếu không kể
đến những ý nghĩa sâu xa hơn, điều này cũng rất có thể là sự thật. Vào thế kỷ
18 TCN, khi khu mộ của Mari bắt đầu có những dấu hiệu sụp đổ, người ta đã phát
hiện thấy nhiều chi tiết của tranh tường có đặc điểm chung với hội hoạ Ai Cập,
ví dụ: đầu và chân các nhân vật đều được nhìn nghiêng, vai quay trước mặt, màu
sắc sử dụng rất ít.
Hội hoạ dành cho các lĩnh vực khác ở Ai Cập cổ có khác biệt
chút ít so với hội hoạ trong các khu mộ. Ví dụ phát hiện của Cnossos chỉ ra rằng
khoảng năm 1700 - 1600 trước Công nguyên, ở Ai Cập có một sức sống mãnh liệt và
đa dạng hơn những gì chúng ta đã biết về Ai Cập. Giai đoạn này người Ai Cập
thích những đường cong trang trí linh hoạt và hướng nhìn phía bên của các nhân
vật, đồng thời thích dùng các mảng màu phẳng (màu bẹt).
Gần đây hơn, vào năm 1970, người ta đã khám phá ra các đoạn
tranh trên tường thành Mycène, có đoạn mô tả nửa thân trên người phụ nữ. Người
ta ước tính, bức tranh này ra đời khoảng thế kỷ XIII trước Công nguyên. Làm thế
nào có thể nhận thấy bức tranh đó có những nét truyền thống Ai Cập cổ, rất có
thể do được Crète truyền lại.
No comments:
Post a Comment